Một số điểm sáng tình hình kinh tế – xã hội quý III và 9 tháng năm 2024

14.10.2024 14:00260 đã xem

 

       Kinh tế thế giới chín tháng năm 2024 đang dần ổn định khi thương mại hàng hóa toàn cầu được cải thiện trở lại, áp lực lạm phát giảm dần, điều kiện tài chính tiếp tục được nới lỏng, nguồn cung lao động gia tăng. Trong tháng 9/2024, hầu hết các tổ chức quốc tế đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ 0,1 đến 0,3 điểm phần trăm so với các dự báo đưa ra trước đó, đạt từ 2,7% đến 3,2%, tương đương tăng trưởng năm 2023. Trong nước, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là thiệt hại do cơn bão số 3 gây ra tại các địa phương phía Bắc nhưng với quyết tâm nhanh chóng khắc phục hậu quả của bão lũ, sớm ổn định đời sống của Nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành và địa phương nghiêm túc, quyết liệt thực hiện các giải pháp đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP về phát triển kinh tế – xã hội; Nghị quyết 02/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ hằng tháng; Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 3. Tình hình kinh tế – xã hội chín tháng năm 2024 của nước ta duy trì xu hướng tích cực, các ngành, lĩnh vực đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo đà tăng trưởng cho những tháng còn lại của năm. Một số điểm sáng về tình hình kinh tế – xã hội quý III và chín tháng năm 2024 của nước ta như sau:

(1) Trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi, tăng trưởng kinh tế chín tháng năm 2024 của nước ta duy trì xu hướng tích cực, quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 5,87%; quý II tăng 7,09%; quý III tăng 7,40%). Trong quý III/2024, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,11%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo là điểm sáng của nền kinh tế với tốc độ tăng 11,41%, đây là mức tăng cao nhất của cùng kỳ các năm trong 6 năm gần đây[1]; khu vực dịch vụ tăng 7,51%. Tính chung chín tháng năm 2024, GDP tăng 6,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,20%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,19%; khu vực dịch vụ tăng 6,95%.

Hình 1. Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2011-2024 (%)

(2) Sản lượng lúa hè thu, diện tích gieo trồng thu đông và sản lượng cây ăn quả đạt khá do thị trường xuất khẩu thuận lợi; chăn nuôi lợn và gia cầm nhìn chung ổn định; giá gỗ nguyên liệu ở mức cao khuyến khích người dân đẩy mạnh khai thác gỗ; nuôi trồng thủy sản duy trì tốc độ tăng trưởng.

Sản lượng lúa hè thu năm nay ước đạt 11,1 triệu tấn, tăng 77,6 nghìn tấn so với vụ hè thu năm trước; năng suất đạt 58,1 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha. Diện tích lúa thu đông tăng khá, đạt 626 nghìn ha, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều diện tích cây ăn quả đến kỳ thu hoạch, sản phẩm tiêu thụ thuận lợi, giá bán ổn định. Sản lượng một số cây ăn quả chủ yếu 9 tháng năm 2024 như sau: Sầu riêng ước đạt 984,8 nghìn tấn, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước; xoài đạt 858,4 nghìn tấn, tăng 3,6%; cam 1.084,4 nghìn tấn, tăng 2,3%.

Tính chung chín tháng năm 2024, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tăng 5,2%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 1821,6 nghìn tấn, tăng 4,9%; sản lượng trứng gia cầm ước đạt 14,9 tỷ quả, tăng 5,0%.

Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước chín tháng năm 2024 ước tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán tăng 3,3%; sản lượng gỗ khai thác tăng 7%.

Sản lượng nuôi trồng ước đạt 4.044,8 nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, sản lượng cá tra đạt 1.259,5 nghìn tấn, tăng 4,6%.

(3) Sản xuất công nghiệp tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực với chỉ số sản xuất tháng sau cao hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước (chỉ số IIP quý I năm 2024 tăng 5,9%; quý II tăng 9,9%; quý III ước tăng 10%)[2]. Chỉ số sản xuất công nghiệp chín tháng năm 2024 ước tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 9,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,1%, nhờ đó đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ điện cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.

Hình 2: Tốc độ tăng chỉ số sản xuất công nghiệp (%)

(4) Ngành du lịch duy trì đà tăng trưởng với các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch được đẩy mạnh. Khách quốc tế đến nước ta trong quý III/2024 ước đạt gần 3,8 triệu lượt người, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước; tính chung chín tháng năm 2024, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 12,7 triệu lượt người, tăng 43%.

Hình 3: Khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng năm 2024 phân theo vùng, lãnh thổ

(5) Xuất khẩu hàng hóa là điểm sáng của nền kinh tế trong bối cảnh tăng trưởng thương mại thế giới được cải thiện. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa chín tháng năm 2024 ước đạt 578,47 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 15,4%; nhập khẩu tăng 17,3%. Khu vực kinh tế trong nước tiếp tục là điểm sáng của hoạt động xuất nhập khẩu, duy trì tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của khu vực có vốn đầu tư

nước ngoài [3].

Cán cân thương mại hàng hóa chín tháng năm 2024 sơ bộ xuất siêu 20,79 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 22,1 tỷ USD), góp phần tạo động lực sản xuất và kích thích xuất khẩu.

(6) Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội chín tháng năm 2024 tăng khá, phản ánh sự phục hồi và mở rộng của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn FDI đăng ký tăng thêm đạt tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước, cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội chín tháng năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 2.417,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 30/9/2024, cả nước có 1.027 dự án mới được tăng vốn đầu tư nước ngoài với số vốn tăng thêm đạt hơn 7,64 tỷ USD, tăng 7,3% về số dự án và tăng 48,1% về số vốn đăng ký tăng thêm so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tại Việt Nam chín tháng năm 2024 đạt 17,34 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 4: Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam 9 tháng năm 2024 (Tỷ USD)

(7) Lạm phát được kiểm soát phù hợp và hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng chín năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,63%, thấp hơn cùng kỳ các năm 2022 và 2023 (3,94% và 3,66%); bình quân chín tháng CPI tăng 3,88%, có khả năng đạt mục tiêu Quốc hội đề ra trong năm 2024 là 4%-4,5%.

Hình 5: Tốc độ tăng/giảm chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 và 9 tháng

(8) Thu ngân sách Nhà nước tăng cao, phản ánh sự phục hồi tích cực của nền kinh tế. Thu ngân sách Nhà nước chín tháng năm 2024 ước đạt 1.448,2 nghìn tỷ đồng, bằng 85,1% dự toán năm và tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó thu nội địa ước đạt 1.203,1 nghìn tỷ đồng, bằng 83,3% và tăng 18,9%.

(9) Lao động có việc làm và thu nhập bình quân của người lao động chín tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm đều giảm, công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, ngành thực hiện nhanh chóng và kịp thời.

Lao động có việc làm chín tháng năm 2024 ước tính đạt 51,4 triệu người, tăng 212 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,26%, giảm 0,02 điểm phần trăm; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,99%, giảm 0,03 điểm phần trăm; thu nhập bình quân lao động ước tính đạt 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 7,4% (tương ứng tăng 519 nghìn đồng).Trong chín tháng năm nay, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã hỗ trợ cho người dân gần 21,8 nghìn tấn gạo.

[1] Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý III các năm 2019-2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 10,38%; 3,46%; -4,83%; 11,24%; 5,59%; 11,41%.

[2] Chỉ số IIP các tháng, quý năm 2024 so với cùng kỳ năm trước là: Tháng 3 tăng 4,8%; tháng 4 tăng 7,4%; tháng 5 tăng 10%; tháng 6 tăng 12,4%; tháng 7 tăng 11,1%; tháng 8 tăng 8,4%; tháng 9 ước tăng 10,8%.

[3] Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2024 của khu vực kinh tế trong nước ước tăng 20,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,4%.

Tin tức khác